Tài liệu này được viết với mục đích mô tả các nguồn nước thải trong lĩnh vực y tế, đặc điểm cũng như nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường của loại nước thải này từ đó đưa ra các phương pháp xử lý phù hợp.
Nước thải là loại nước bị ô nhiễm năng, chứa nhiều phân, nuóc tiểu, hoá chất độc hại. Các loại nước từ hoạt động sinh hoạt như giặt, tắm, trong phòng thí nghiệm, tráng phim X-quang, … cũng được liệt kê vào danh sách nước thải y tế nhưng với mức độ ô nhiễm thấp hơn.
Các nguồn phát thải nước thải y tế chủ yếu gồm:
- Nhà bếp
- Hoạt động giặt ủi
- Phòng điều hành và ICU
- Phòng thí nghiệm
- Phóng xạ học
- Thấm tách máu
- Nha khoa
- Nhà vệ sinh
- Bộ phận kỹ thuật và bảo trì
Các chất gây ô nhiễm chính có trong nước thải y tế:
- Hoá chất bao gồm: Thuốc gây mê, chất khử trùng (formaldehyde, glutaraldehyde), hoá chất từ các hoạt động trong phòng thí nghiệm, dung dịch quang hoá (hydroquinone) và phương tiện cản tia X có chứa organohalogen có thể hấp thụ hợp chất (AOX)
- Thuỷ ngân từ ngành nha khoa hoặc trong phòng thí nghiệm
- Chất dinh dưỡng và nitrat
- Dược phẩm bao gồm cả thuốc kháng sinh
- Chất thải phóng xạ
- Các tác nhân truyền nhiễm, bao gồm vi khuẩn, virus và ký sinh trùng
Các nguy cơ về sức khoẻ và môi trường do nước thải y tế gây ra
Sự xuất hiện của nhiều chất ô nhiễm trong nước thải y tế là điều tất yếu nhưng thực tế cho thấy, việc xử lý chúng chưa thực sự được quan tâm. Ở nhiều cơ sở, mặc dù nước có khả năng lây nhiễm cao nhưng không được trang bị hệ thống cống rãnh đúng tiêu chuẩn, nước có thể rò rỉ và đi vào mạch nước ngầm dẫn đến ô nhiễm nguồn nước tự nhiên.
Nước thải từ phòng thí nghiệm chứa một lượng không nhỏ hoá chất và mầm bệnh, do đó, chúng cần được xử lý đặc biệt trước khi đưa vào hệ thống xử lý chung
Theo đánh giá của các nhà khoa học, chất dinh dưỡng dư thừa gây ra sự thoái hoá sinh học trong nước ngầm, hồ và sông bằng cách sử dụng hết oxy (phú dưỡng), tạo điều kiện để tảo phát sinh, tăng độc tố sinh học. Ở một khía cạnh khác, dược phẩm trong nước có thể hoạt động như chất gây rối loạn nội tiết tố; thuốc kháng sinh có thể dẫn đến các mầm bệnh kháng thuốc; sự rò rỉ thuỷ ngân là điều kiện để dẫn đến rối loạn thuỷ ngân và kim loại nặng. Sự xuất hiện của các mầm bệnh chính là nguyên nhân dẫn đến các dịch bệnh truyền nhiễm qua nước trong cộng đồng như: Campylobacterosis, bệnh tả, viêm gan A,viêm gan E, bệnh sán , sốt thương hàn, bệnh do ector và ký sinh trùng, sốt xuất huyết, sốt rét, giun đũa,…
Để có thể cải thiện tốt tình trạng phát triển bệnh do chất ô nhiễm trong nước thải y tế gây ra cũng như kiểm soát chúng, nguyên tắc cơ bản là hạn chế nghiêm ngặt việc xả chất lỏng nguy hiểm đến cống rãnh; phân tách và giảm thiểu chất thải, lưu trữ an toàn chất thải lỏng cũng như chất thải rắn. Bên cạnh đó, rác thải hoá chất và dược phẩm như aldehyde, chất tạo màu, kháng sinh,… không nên thải trực tiếp vào nguồn nước bên ngoài.
Dựa trên các yêu cầu thực tế, việc xử lý nước thải y tế được đề xuất theo phương án:
- Nước thải y tế được dẫn đến hệ thống xử lý riêng
- Nước mưa, nước đã được xử lý được sử dụng để tưới tiêu, xả toilet hoặc tái sử dụng vào những mục đích phù hợp
Đối với một số dòng chất thải, đặc biệt là chất thải có chứa hoá chất, cần áp dụng phương pháp xử lý riêng biệt để trung hoà pH, lọc và lắng hoặc tiệt trùng. Riêng với nước thải từ ngành xạ trị, nước thải cần được gom riêng và bảo quản trong thời gian đủ để nồng độ chất gây hại được giảm xuống mức phù hợp trước khi đưa tới hệ thống xử lý chung.
Mô hình xử lý nước thải y tế
Theo quy chuẩn chung, việc xử lý nước thải y tế cần được tiến hành qua 3 giai đoạn gồm:
- Xử lý chính: Loại bỏ chất rắn kích thước lớn
- Xử lý thứ cấp: Loại bỏ chất hoà tan và vật chất sinh học lơ lửng
- Xử lý bậc ba: Loại bỏ mầm bệnh, chất rắn lơ lửng, hoá chất còn dư thừa trong nước, đảm bảo chất lượng nước ở mức tiêu chuẩn cho phép